Giáo dục Việt Nam tiếp tục đứng trước nguy cơ bị cô lập và khó hoà nhập được với các trào lưu giáo dục lớn trên thế giới.
1. Ngôn ngữ: Thứ ngôn ngữ giảng dạy
chính là tiếng Việt, là thứ ngôn ngữ chỉ có người Việt Nam dùng, đây là
thứ ngôn ngữ có tính chất riêng biệt không có khả năng hội nhập, trong
khi ngôn ngữ giao tiếp quốc tế là tiếng Anh thì ít được chú trọng trong
nhà trường (nhất là các trường công lập).
2. Chương trình, giáo trình giảng dạy
hầu hết do giáo viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hoá và
công nhận trên quốc tế, dẫn đến việc bằng cấp cũng chưa được công nhận
và đánh giá cho chuẩn, đúng mức, khiến sinh viên khó tham gia các chương
trình trao đổi giao lưu một năm với các trường ĐH trên thế giới hoặc
chuyển ngang sang học tiếp tại các trường ĐH quốc tế hoặc xét học tiếp
các cấp độ cao hơn đối với các HS đã tốt nghiệp trong nước.
3. Trong nước chưa có một bộ quy tắc
đánh giá chất lượng đào tạo, cũng như tiêu chí xếp loại các trường, các
nghành học để nước ngoài dựa vào đó hợp tác làm việc với các trường
trong nước. Điều này dẫn đến hiện tượng một số tổ chức quốc tế tự xếp
hạng các trường ĐH Việt Nam một cách không khách quan và thấp hơn rất
nhiều so với thực trạng của chúng ta.
4. Chưa có các cơ quan, tổ chức trung
gian khách quan làm việc độc lập, khách quan với các cơ quan quản lý Nhà
nước về Giáo dục để có các ý kiến phản biện, kịp thời chấn chỉnh cũng
như góp ý cho các dự thảo hoặc luật Giáo dục.
5. Chính sách đầu vào của các Trường
ĐH Sư phạm chưa cao, chất lượng đào tạo chưa có được những ưu tiên về
mọi mặt, chính sách lương bổng của giáo viên còn chưa đủ sức để thu hút
nhân tài - những người thực sự có tâm, có đức vào làm trong lĩnh vực đào
tạo con người.
6. Hệ thống thi cử đánh giá thực lực
khả năng của học sinh còn bất cập: Chỗ khó, chỗ dễ…khiến học sinh học
lệnh, học tủ, quay cóp, dạy và học thêm làm mất quá nhiều thời gian của
xã hội bao gồm cả học sinh và phụ huynh…
7. Bệnh thành tích có nguy cơ quay
trở lại sau vài năm đã được nêu đích danh và có biện pháp ngăn chặn.
Nguyên nhân sâu xa từ các cách tuyển chọn nhân sự của nhà nước: Tiêu
chuẩn hoá cán bộ dựa trên bằng cấp chứ không dựa vào thực tài…
Bộ Giáo dục và Đào tạo và các nhà
nghiên cứu khoa học giáo dục Việt nam cũng đã đưa ra rất nhiều giải pháp
và đề xuất để giải quyết các bất cập trên, tuy nhiên trong đề xuất này
tôi chỉ đưa ra một vài giải pháp cho việc quốc tế hoá hệ thống đào tạo
của Việt nam để dễ dàng tham gia vào quá trình hội nhập Giáo dục toàn
cầu, một công việc đang diễn ra hết sức cấp thiết và gay gắt trên toàn
thế giới.
![](http://giaoduc.net.vn/Uploaded/doquyen/2012_10_22/giao-duc-toan-cau-giaoduc.net.vn.jpg) |
Ảnh minh họa. (Nguồn Internet) |
Nếu như trước đây hệ thống giáo dục
châu Âu là một hệ thống với cách thức giảng dạy, độ dài, bằng cấp… hoàn
toàn khác biệt thì nay sau một thời gian ngồi bàn bạc, họ đã thống nhất
tiêu chuẩn hoá - tạm gọi là Thoả thuận Bô lô Nhơ (Bologna Process) cho
toàn bộ nền giáo dục của các nước châu Âu kể cả Anh, Đức, Pháp… Kể từ
năm học vừa rồi, các trường của châu Âu đã hoàn toàn liên thông bằng cấp
ở các cấp độ học khác nhau và thống nhất các tên gọi bằng cấp để học
sinh có thể học tập liên thông trong toàn khối EU.
Nếu như trước đây, các nền giáo dục
khác biệt vì ngôn ngữ như tiếng Pháp, Đức, Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Hàn
quốc, Nhật bản… thì nay đều đã đua nhau mở các khoá đào tạo bằng tiếng
Anh để thu hút SV quốc tế, nhằm quốc tế hoá nền giáo dục quốc gia, hấp
dẫn các SV quốc tế giỏi đến học tập và giao lưu tại nước họ.
Biết bao chương trình học bổng hấp dẫn
cho SV quốc tế tại Italia, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và gần
đây nhất là Brazil – đây chính là những cố gắng của các Chính phủ nhằm
giúp nền giáo dục của họ khỏi bị tụt hậu và không hội nhập được vì lý do
ngôn ngữ.
Tại Brazil - nước chủ yếu nói tiếng Bồ
đào Nha, họ đã đưa ra chương trình “Khoa học không biên giới” nhằm
khuyến khích 100.000 SV nước họ học tập một năm tại một trường quốc tế ở
nước ngoài trong quá trình học ĐH và mở ra cơ hội tương tự cho các SV
quốc tế tới Brazil để nghiên cứu các chương trình khoa học tại các
trường ĐH và học viện tại Brazil trong hơn 20 lĩnh vực ưu tiên. Điều này
sẽ khiến cho các trường ĐH phải năng động hơn để đón nhận các SV quốc
tế cùng học, cùng nghiên cứu bằng tiếng Anh và SV của họ cũng phải cố
gắng nâng cao ngoại ngữ để học tập được ở môi trường quốc tế. Thực là
lợi cả đôi đường.
Tây Ban Nha và Nhật Bản là hai nước
hiện tại đã có một chương trình khổng lồ nhằm khuyến khích SV của họ đi
sang các nước nói tiếng Anh trong dịp hè để nâng cao tiếng Anh nhằm tham
gia được các chương trình giao lưu một năm của các trường ĐH lớn trên
thế giới.
Nước Mỹ là một nước lớn với một loạt
trường ĐH hàng đầu thế giới cho nên tưởng như nhu cầu hội nhập giáo dục
không phải là việc quá cấp bách, ấy vậy mà chỉ trong vài năm gần đây, họ
mới chợt nhận ra rằng, họ đã đi sau nhiều nước nhỏ hơn như Anh, Úc…
trong việc thu hút SV quốc tế đến học tập. Cũng bởi nhiều chính sách
liên quan đến visa, đến chính sách sử dụng các đơn vị tuyển sinh quốc tế
hoặc ngay cả việc có coi giáo dục là một nghành kinh doanh hay không?
Nhưng tại Hội nghị giáo dục quốc tế
NAFSA tại Houston vào tháng 6 vừa rồi, tập đoàn giáo dục ELS đã đưa ra
một mô hình rất hay: Giúp cho hơn 500 trường ĐH của Mỹ có một cái phao.
Họ làm việc với hơn 500 trường ĐH hoặc cao đẳng của Mỹ, mở các trung tâm
tiếng Anh để giúp cho SV quốc tế đến học nâng cao tiếng Anh trước khi
vào học khoá chính và cái chính là giúp các trường ĐH, CĐ này thu hút
tuyển sinh SV quốc tế đến học tại trường, tại VN họ cũng có văn phòng
đại diện để tuyển sinh.
Vậy là các trường kia không cần bỏ vốn gì ra, chỉ cần một sự hợp tác đúng hướng cũng có thể giúp họ tham gia cuộc chơi.
Trong cuộc chơi hội nhập giáo dục này,
nước nào đứng ngoài sẽ bị tụt hậu và khó có cơ may tham gia vào việc
hoạch định chính sách giáo dục quốc tế cũng như không kịp chuẩn bị cho
nguồn nhân lực của mình cho việc hội nhập kinh tế toàn cầu.
Ở Việt Nam, có rất nhiều vấn đề xoay
quanh giáo dục đã được đưa ra bàn luận tại các Hội nghị giáo dục, tại
các cuộc họp của Quốc hội, với tư cách là một người nghiên cứu chuyên
sâu về giáo dục quốc tế, tôi chỉ xin đề xuất những việc có thể làm được
ngay để giúp nền giáo dục Việt Nam hoà nhập nhanh chóng với dòng thác
giáo dục quốc tế.
Xây dựng hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục
Hàng năm đánh giá, xếp hạng các trường
ĐH, CĐ tại Việt Nam chính thức hoá các tiêu chí lựa chọn và xếp hạng,
có thể nghiên cứu cách đánh giá của TUV, của DIN, của EU, của tổ chức
QS, của một số tờ báo lớn… hoặc của Bộ Giáo dục một số nước, trong đó có
thể học ngay Malaysia đang làm rất tốt.
Sự tuyển chọn dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau, chẳng hạn như trường có chất lượng đào tạo tốt nhất, trường
có các đề tài nghiên cứu có tính ứng dụng trong thực tế tốt nhất, trường
có cơ quan quản lý sinh viên tốt nhất… (khoảng từ 10 -15 tiêu chí khác
nhau), ngoài ra cũng có thể có giải dành các trường để xảy ra tiêu cực
hoặc các hiện tượng quay cóp hoặc không trung thực, hoặc gian dối.. gây
ảnh hưởng xấu trong xã hội…
Hàng năm tổ chức buổi lễ trao giải
thưởng xếp hạng cho các trường thật hoành tráng để các trường phấn đấu
và nâng cao chất lượng đào tạo.
Nâng cao trình độ tiếng Anh cho giáo viên và sinh viên Việt Nam
Mời các tổ chức hàng đầu về giảng dạy
tiếng Anh cho SV quốc tế: Cambridge Education Group (CEG) – Anh và ELS -
Mỹ vào mở các trung ngoại ngữ tại các trường ĐH hàng đầu tại Việt Nam
nhằm nâng cao trình độ tiếng Anh cho giáo viên và học sinh Việt nam tại
các trường này. Họ lo toàn bộ phần giáo trình giảng dạy, giáo viên. Phía
các trường thì lo địa điểm và HS. Đây sẽ là nơi đào tạo nguồn cho các
SV có thể tham gia các khoá giao lưu một năm tại nước ngoài. Hiện nay,
Nhật bản đã bắt đầu triển khai dự án này.
Trong hai năm tới đây hầu hết các
trường trên thế giới đều thiếu SV quốc tế do tình trạng kinh tế thế giới
gặp khó khăn, bởi vậy rất nhiều trường sẵn lòng làm các chương trình
học bổng dành cho các nước khó khăn, nhằm tạo công ăn việc làm cho giáo
viên của họ, tránh phải nghỉ ăn lương thất nghiệp. Việt Nam nên tranh
thủ đi xin thêm học bổng đào tạo giáo viên tiếng Anh tại các nước nói
tiếng Anh như: Ireland, UK, Aus, NZ, Canada và Mỹ.
Nghiên cứu một số nước xung quanh như
Nhật bản, Hàn Quốc…để tự mình đứng ra tổ chức các loại hình kiểm tra
trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh từ Phổ thông lên đến ĐH và
dành cho người đi làm.
Hiện nay trên thế giới; tổ chức Hội
Đồng Anh và IDP đang nắm độc quyền trong lĩnh vực tổ chức kỳ thi IELTS,
còn một tập đoàn Giáo dục tại Mỹ hiện đang sở hữu TOEFL. Thực chất, đây
là hai kỳ thi khá đơn giản, nhằm đánh giá khả nẳng sử dụng ngôn ngôn ngữ
ở 4 kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết có đủ để vào học ở các cấp độ CĐ và
ĐH hay không chứ không có giá trị đối với các trình độ tiếng Anh ở bậc
thấp.
Chúng đã bị các trường kêu rất nhiều
tại các hội thảo giáo dục quốc tế, vì chúng đã bị biến thành các rào cản
cho SV quốc tế đến với các trường thông qua các lobby với các văn phòng
visa và chính sách nhập cư…khi bắt các SV quốc tế phải có điểm thi các
kỳ thi này trước khi sang học. Mặc dù hầu hết HS quốc tế đều phải học
một khoá tiếng Anh ngắn hạn trước khi vào khoá chính, và các trường đều
có các bài test của riêng mình để đánh giá trình độ tiếng Anh của HS (
level test) để xếp vào các lớp học cho phù hợp.
Hơn nữa vì độc quyền nên giá của các
kỳ thi này đã tăng lên gấp bội so với chi phí thực đưa ra ban đầu (từ
60$ nay là 140$). Hàng năm tại Việt Nam có khoảng 7000 – 10.000 HS phải
dự các kỳ thi này, tốn kém một lượng tiền ngoại tệ không nhỏ vào một
việc không cần thiết.
Nhật Bản là nước đầu tiên từ năm 1963
đã nhờ ngay các chuyên gia về testing của Mỹ, những người đã xây dựng
TOEFL để xây dựng cho họ một hệ thống kiểm định tiếng Anh rất bài bản từ
cấp một đến sau ĐH ở 7 cấp độ tên là EIKEN. Đây là một sự hợp tác giữa
Bộ Giáo dục Nhật Bản và một tổ chức phi lợi nhuận tại Nhật Bản cùng làm.
Học sinh hàng năm đều có thể đăng ký thi (3 lần trong một năm) để tự
mình đánh giá mình đã đạt cấp độ nào. Cách đánh giá rất đơn giản : chỉ
là đạt và chưa đạt, chứ không có điểm. Cái chính là sau gần 50 năm tổ
chức, họ chưa để xảy ra một sai sót nào vì cứ sau mỗi lần thi là đề lại
bị huỷ và không bao giờ dùng lại, ngoài ra giá cả rất hợp lý, khoảng 50$
- 75$/ test và được hầu hết các trường trên thế giới đã công nhận.
Hàn Quốc cũng đã bắt đầu ứng dụng bài
test riêng cho HS của họ từ hai năm nay (NEAT – National English Ability
Test) với cách làm tương tự. Như vậy xu hướng xây dựng bài test tiếng
Anh riêng cho từng nước đã trở nên thành trào lưu sau xu thế phá thế độc
quyền của IELTS và TOEFL, nhằm giúp các trường thu hút thêm SV quốc tế.
Tại Việt Nam, để đi nhanh hơn, ta có
thể mời thầu từ các tổ chức trên hoặc làm việc với EIKEN để có một bài
test với giá khoảng 25$ - 30$ cũng gần ngang với chi phí cần có để làm
ra bài test đó. Nếu vậy ta có thể bỏ qua giao đoạn phải đi vận động các
trường trên thế giới công nhận bài test của Việt Nam.
Tôi đã làm việc với ông Tổng giám đốc
của EIKEN và họ sẵn sàng giúp VN chuyển giao công nghệ để cùng khai thác
bài test này với giá tôi vừa trình bày như trên khoảng 25 $ - 30$.
Triển lãm giáo dục hàng năm
Tại tất cả các nước quanh ta, hàng năm
đều có tổ chức các cuộc triển lãm giáo dục kiểu Edu Expo. Đây chính là
cuộc biểu dương lực lượng của nghành giáo dục, nhằm giúp các HS có cơ
hội chỉ cần một một lần đến là nắm được đầy đủ thông tin về các trường
mình dự kiến thi vào.
Khu triển lãm sẽ bao gồm cả khu các
trường ĐH, CĐ, các trường quốc tế… với diện tích rộng rãi, đủ để các
trường có chỗ trưng bày toàn bộ các đặc thù của trường mình, các quầy sẽ
do sinh viên của các trường tự mình đứng quầy và giới thiệu. Tôi từng
rất ấn tượng với quầy của trường cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy ở Hồng
Kông, khi họ mang cả chiếc xe cứu hoả lên và sinh viên cũng mặc quần áo
quân dụng giới thiệu và như vậy các HS đi xem triển lãm sẽ có cơ hội tìm
hiểu kỹ càng về các nghành nghề mà mình lựa chọn. Triển lãm kéo dài
trong 3 ngày, HS các trường THPT sẽ đăng ký đến tham dự theo từng giờ để
tránh quá tải và tạo điều kiện cho ai cũng có thể được đến tìm hiểu.
Ngoài ra, họ còn có cả khu các công ty
thiết bị trường học, khu của các nhà tuyển dụng để tìm kiếm các SV sắp
tốt nghiệp ra trường.
Riêng khu vực các trường của nước
ngoài cũng rất hoành tráng, nhằm thu hút tất cả các trường quốc tế muốn
tìm kiếm SV tới cùng lúc để SV dễ dàng lựa chọn hơn.
Tại VN, hiện tại có quá nhiều cuộc
triển lãm giáo dục, dẫn đến việc làm mất thời gian của HS và tốn kém cho
các trường. Ấy vậy nhưng lại vẫn thiếu những cuộc có tầm cỡ để thu hút
được tất cả các trường trong và ngoài nước cùng tham gia.
Cuộc triển lãm Giáo dục toàn quốc này
tại VN có thể tổ chức tại 3 miền Bắc - Trung - Nam vào khoảng tháng 3.
Đây là thời gian sau tết, khi HS bắt đầu chọn trường và các trường quốc
tế bắt đầu chương trình marketing đi các nước.
Cuộc triển lãm này bản thân nó cũng đủ
cân bằng thu chi bằng việc thu kinh phí từ các trường tham gia. Thậm
chí ở các nước còn đủ để trang trải kinh phí đưa học sinh đến tham dự.
Vì đối tượng tham dự là SV nên nếu làm tốt sẽ có rất nhiều nhà tài trợ, nhà tuyển dụng tham gia tài trợ cho cuộc Edu Expo này.
Nhân dịp này cũng có thể biến thành
một cuộc chơi dành cho SV các trường bằng các cuộc thi văn nghệ hoặc thi
trí tuệ, tiếng Anh, chế tạo robot, hoặc cuộc tổng kết hàng năm, trao
giải cho các trường theo các tiêu chí khác nhau.
Tham gia các hội thảo, diễn đàn, triển lãm giáo dục quốc tế
Nên bổ sung vào Hội đồng cố vấn giáo
dục các chuyên gia giáo dục quốc tế hàng đầu thế giới ở các nước phát
triển, nhằm giúp Việt Nam tiến nhanh hơn vào quá trình hội nhập giáo dục
quốc tế.
Phải nắm được các thông tin mới nhất
về các chính sách giáo dục của các nước, các chương trình học bổng, hỗ
trợ SV quốc tế của các nước trên thế giới để Việt nam tham gia được mà
không bị bỏ lỡ.
Cùng với họ lập ra một danh sách các
hội thảo, triển lãm… giáo dục cần thiết để tham gia, nhằm đưa Giáo dục
Việt Nam ra ngoài biên giới, hội nhập được với các trào lưu mới.
Đặc biệt là xu hướng thu hút sinh viên
quốc tế đến khu vực Đông Bắc Á để học tập vì khu vực này đã trở thành
tâm điểm của sự phát triển kinh tế và trong một tương lai không xa sẽ
trở thành Trung tâm của kinh tế thế giới. Trong đó có Việt Nam, giáo dục
phải đi trước để chuẩn bị cho sự chuyển đổi đó.
Tại Việt Nam, phải tập trung xây dựng một số trường điểm có các khoá học giảng dạy bằng tiếng Anh để thu hút SV quốc tế tới học.
Như vậy chỉ sau có vài năm, Trung Quốc
đã có hai trường nằm trong top 50 là ĐH Bắc Kinh và ĐH Thanh Hoa nằm
thứ 33 và 38 trong xếp hạng các trường ĐH trên thế giới (theo xếp hạng
của QS).
Phải hoạch định các kế hoạch đưa học
sinh đi học tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng kông, Đài loan… và
ngược lại. Phải đưa SV ở các nước này đến Việt Nam, để các HS này sẽ là
nhịp cầu cho sự giao lưu về kinh tế giữa Việt Nam và khu vực sôi động
này.
Phải kết hợp với các Đại sứ quán Việt
Nam ở các nước có nhiều SV Việt Nam đang du học để thường xuyên có
tiếng nói giúp cho du học sinh đấu tranh trong những trường hợp bị mất
tiền học vì các trường bị phá sản, đóng cửa, học sinh bị đuổi học, không
được cấp bằng. Có tiếng nói để lobby chính phủ các nước trong các chính
sách cấp visa cho HS, SV thuận tiện hơn (Điều này hầu như Việt Nam chưa
làm được)
Cục hợp tác đào tạo với nước ngoài của
Bộ GD và ĐT cần thay đổi phương thức lựa chọn cán bộ quản lý du học
sinh ở nước ngoài nhằm lựa chọn được những người có kinh nghiệm tại địa
bàn được cử tới (ít nhất đã từng học tại đó), có ngoại ngữ tốt và khả
năng sử dụng các phương tiện đi lại như biết lái xe để có thể tiếp cận
được HS và giúp đỡ được HS khi họ cần sự giúp đỡ. Tránh việc cán bộ quản
lý HS trở thành những người xa lạ với HS, hoặc chỉ nắm được nhóm HS có
học bổng của nhà nước, còn những du học sinh tự túc thì không biết gì.
(Theo GDVN)