Mấy chục năm nay, gia
đình sáu người, trong đó có bốn trẻ em sống giữa rừng, cách biệt với thế giới
bên ngoài chỉ vì nghèo khổ và bế tắc.
Từ thông tin của anh Lê
Văn Tự, Trạm trưởng Trạm Bảo vệ rừng số 2, Ban Quản lý rừng phòng hộ Tuy Phong
(Bình Thuận), PV báo Pháp Luật TP.HCM đã tìm đến một gia đình sống cách biệt
giữa rừng sâu mấy chục năm nay.
Túp lều giữa đại ngàn
“Căn nhà” của A Sáng nằm
lọt thỏm giữa rừng già huyện Bắc Bình, giáp ranh với tiểu khu 22 rừng phòng hộ
Tuy Phong, ở độ cao gần 800 m so với mặt biển, muốn đến được phải mất một ngày
luồn rừng. Từ cửa rừng ở xã Phan Dũng (huyện Tuy Phong), đến đây phải leo qua
năm ngọn núi, luồn lách qua những khu rừng già với vách đá đầy rêu.
Túp lều được dựng bằng
thân tre, trên phủ bạt. Bốn đứa trẻ nép vào tấm cửa đan bằng phên tre nhìn
khách lạ lẫm. Tất cả chúng đều nhỏ con và hơi khờ khạo. Anh Nguyễn Đẩu, người
dân xã Phong Phú (huyện Tuy Phong) dẫn đường cho chúng tôi nói rằng chỉ mới đây
thôi, mỗi lần có người lạ là chúng lại chạy vào rừng để trốn.
Không giao tiếp, không
học hành, tất cả những gì về thế giới bên ngoài là vài người dân đi làm dầu rái
thi thoảng ghé qua xin nước uống. Hai đứa lớn mỗi tháng một lần cõng dầu rái
xuống núi, tại cửa rừng nơi họ có thể bán dầu và nhận lại lương thực. Bầu bạn
của chúng là một con mèo và hai con chó, trong đó một con bị cụt chân vì vướng
bẫy.
Mỗi ngày A Sáng lại ra
khấn thần rừng xin bình yên cho con cái. Ảnh: HOÀNG ANH
A Sáng tên thật là Gịp A
Dưỡng, người thôn Hải Thủy, xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình, Bình Thuận. Anh 50
tuổi nhưng đã có 32 năm sống giữa rừng. Nhà nghèo, từ nhỏ A Sáng đã lên rừng
làm dầu rái (lấy nhựa thông) về bán. Rừng xa, ban đầu mỗi tuần anh về nhà một
lần, rồi nửa tháng, rồi có khi ở hẳn nhiều tháng không về, chỉ xuống bãi bán
dầu rồi lại trở lên. Từ năm 1982, anh ở lại hẳn trong rừng.
Cuộc đời buồn
Rồi A Sáng thương một cô
gái đi gánh dầu rái thuê trên rừng. Họ dắt díu nhau về quê nhà Hải Ninh, sống
chung trong căn nhà trống trước dột sau với vợ chồng anh trai và có một đứa con
là Gịp A Moi. A Sáng vẫn lên rừng, mỗi tháng về đôi lần gửi tiền bán dầu rái
cho vợ đong gạo. Mấy năm sau, người vợ mắc bệnh rồi qua đời. Từ đó A Sáng ở hẳn
trong rừng sâu, không có ai bầu bạn ngoài một con khỉ. Thi thoảng anh mới có
dịp nói chuyện khi gặp vài người đi làm dầu rái trên núi cao cách đó nửa ngày đường.
Ngày nọ, cô gái Nguyễn
Thị Quảng từ xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong lên gánh dầu thuê, họ quen nhau rồi về
ở cùng nhau. A Sáng đón đứa con của người vợ đầu, lúc này chừng năm, sáu tuổi,
lên núi ở cùng.
A Sáng biết chút ít nghề
thuốc Nam học từ mẹ và biết đỡ đẻ vì hồi nhỏ mẹ sinh mấy đứa em, bà mụ sai anh
đi mua thuốc và phụ đỡ đẻ. Khi chị Quảng mang bầu, núi cao không đưa vợ về xuôi
sinh nở được, anh làm bà mụ cho vợ mình. Vợ sinh xong, anh tắm rửa cho con, hút
đờm dãi trong miệng nó để lớn lên nó khỏi bị hen. Họ có đứa con thứ hai là bé
gái Gịp A Nhì như thế.
Muốn tìm đến túp lều của họ, nhóm PV đã phải nhờ người dẫn đường,
băng rừng trọn một ngày. Ảnh: ĐỨC HIỂN
Bữa cơm chiều của gia đình A Sáng. Ảnh: ĐỨC HIỂN
Rồi vợ lại mang bầu, A
Sáng lại đỡ đẻ. Được hơn một tuổi thì thằng bé bị sốt. Hôm đó mưa trắng rừng,
không cách gì có thể đưa đứa bé đang sốt hầm hập băng qua bảy ngọn núi với
những khe suối lũ đang gào thét và những vách đá dựng đứng đầy rêu để về bệnh
viện. Những bài thuốc Nam không ngăn giúp đứa bé dễ thở hơn. Nó chết trên tay A
Sáng.
Vợ lại mang bầu, A Sáng
lại luồn rừng về mua thuốc và đỡ cho vợ. Nhưng đứa bé bị nhau thai quấn cổ và
chị Quảng, vợ anh, cũng chết vì băng huyết khi sinh. Cũng như đứa con trước đó,
họ chết trong một chiều mưa giăng trắng rừng già.
A Sáng dắt díu hai đứa
con Gịp A Moi và Gịp A Nhì tìm một ngọn núi cao hơn, dựng lều gần nơi anh lấy
dầu rái để tiện chăm con và làm dầu. Đó là một ngày mùa khô 17 năm trước.
Cái nghèo đeo đẳng
Chị Quảng có một người
em gái tên Nguyễn Thị Lâm Tuyền, nghèo như chị và cũng đi gánh dầu thuê như
chị. Mỗi khi lên rừng, cô lại mang theo khi cái áo, lúc ký thịt, hũ mắm cho
cháu, bịch thuốc rê cho anh rể. Những người bạn đi rừng khuyên cô: “Mày cũng
gần ba mươi rồi. Thôi thì mày lấy A Sáng rồi chăm hai đứa nhỏ”.
Không nói ra thì từ lâu
cô cũng đã chăm hai đứa con của Sáng như người mẹ thứ hai. Đến khi A Sáng ngỏ
lời: “Cô về đây ở với anh lo cho thằng A Moi và con bé A Nhì!” thì cô im lặng.
Họ thành vợ chồng từ đó. Túp lều giữa rừng được thay tấm bạt mới, A Sáng xẻ một
cây gỗ làm bộ ván cho hai đứa con, vách lều được nới rộng và ngăn ra. Thêm một
ngày đốn tre và đục đẽo, A Sáng chỉ tay vào cái giường tre mới đóng: Anh với em
ngủ chỗ này.
Rồi chị Tuyền mang bầu,
dĩ nhiên vẫn không thể leo núi về trạm xá. A Sáng lại làm bà mụ trong những
ngày mưa rừng gió núi. Anh ra gốc cây to nhất sau lều, lập bàn thờ và khấn thần
núi thần rừng: “Xin ông bà cô cậu phù hộ cho vợ con sanh đứa bé mạnh tay mạnh
chưn”. Bốn đứa con: Gịp Sám Tày, Gịp A Long, Gịp A Dậu và Gịp Linh Chi nối nhau
ra đời. Túp lều đỡ cô quạnh hơn nhưng cuộc sống khó khăn hơn. Lều chật, sáu đứa
con vẫn ngủ trên ván, thằng em gối đầu lên bụng thằng anh, thằng bé vắt chân
lên cổ thằng lớn.
Mơ ước một căn nhà
20 tuổi, thằng con lớn
Gịp A Moi một bữa nói với cha: “Ở rừng khổ quá, con muốn về làng!”. Nhưng tiền
đâu mà cất nhà? Xa rừng biết sống bằng gì? Mảnh đất cha mẹ để lại, người anh
trai ở phần trước, phần sau vẫn dành cho A Sáng. 30 năm nay, chưa khi nào A
Sáng nguôi nỗi khao khát có một mái nhà trên đó. Nhưng làm ngày nào ăn ngày ấy
còn chưa đủ, hai vợ chồng với một bầy con sáu đứa mỗi ngày ăn gần 7 kg gạo, mỗi
bữa nấu bảy lon, thực phẩm chỉ có rau rừng, thú nhỏ bẫy được, vậy mà còn đói.
Ước mơ về một ngôi nhà ở làng để đưa vợ con về cứ mãi xa vời.
Nghĩ đến bầy con thất
học, không có dịp giao tiếp với bên ngoài, cứ cặm cụi kiếm ăn trong rừng sâu
núi thẳm, nhiều đêm anh muốn khóc. Anh nghĩ: Đời mình đã thế, đời chúng nó rồi
cũng lại cắm mặt vào rừng làm dầu đổi gạo, khác gì muông thú?
Một buổi, thằng Gịp A
Moi mang dầu rái xuống bãi và không trở lên rừng nữa. Nó nhắn một người thợ
rừng là xuống Liên Hương làm thuê. Con bé Gịp A Nhì thay anh gánh dầu xuống núi
rồi cũng không trở lên nữa, nó xuống ở với anh trai, cũng đi làm thuê.
Giờ, thằng bé Gịp Sám
Tày, 16 tuổi và thằng Gịp A Long lên 10 lại thay anh chị nó gánh dầu xuống bãi.
Hai thằng nhỏ vác can dầu mấy chục ký luồn rừng leo dốc như con khỉ, những con
dốc mà chúng tôi bở hơi tai hai ba bận mới leo tới đỉnh.
Những đứa trẻ ấy chỉ
muốn được về sống ở làng như bao đứa trẻ bình thường. Bố mẹ chúng cũng chỉ muốn
có một cái nhà ở làng như người bình thường, đau ốm hay sinh nở được đến bệnh
viện, không phải đẻ trong rừng và chết trong rừng như người vợ và hai đứa con
trước. A Sáng đã thức nhiều đêm đến khi gà rừng gáy sáng vì câu hỏi của vợ con:
“Khi nào mình được về làng?”.
Ở tuổi ngoài 50, chân đã
mỏi sau gần 40 năm lội rừng, anh không có nhiều thời gian và cơ hội.
A Sáng hát rất hay nhưng
ở rừng từ năm 18 tuổi nên đến giờ anh vẫn chỉ thuộc những bài nhạc vàng từ 40
năm trước. Say say anh vẫn nghêu ngao “nhà em có hoa vàng trước ngõ”. Còn thực
tại thì vẫn là túp lều giữa rừng sâu với vợ và bốn đứa con, cách ngôi làng gần
nhất trập trùng núi cao và rừng rậm. Một căn nhà, mơ ước của đời người vẫn là
điều quá xa vời.
A Sáng nghèo, A Sáng
khổ. Nhưng nhìn vào mắt anh, giăng võng ngủ với anh một đêm bên túp lều giữa
rừng, tôi thấy ở đó còn hơn cả sự nghèo, nó là sự tối tăm, luẩn quẩn và bế tắc.
Theo Nguyễn
Đức Hiển|
Pháp luật TPHCM